Nhảy Nhảy Nhảy
Phan_5
Cuộc đấu tranh nội tâm vẫn hết sức ác liệt khi chiếc xe taxi chở chúng tôi tới khu nhà bê tông cốt thép giản dị và rồi cô nhanh chóng quét bay mâu thuẫn trong tôi. “Tôi sống cùng em gái,” cô nói.
Không còn ý nghĩ nào về chuyện cần hay là muốn nữa. Tôi thực sự cảm thấy nhẹ nhõm hơn một chút.
Nhưng khi ra khỏi xe, cô hỏi tôi liệu có đưa cô đến cửa nhà được không. Đại khái cũng chẳng có lý do gì, cô giải thích, nhưng thỉnh thoảng về khuya, có một người đàn ông lạ trong hành lang. Tôi dặn người lái xe đợi vài phút, rồi đi cùng cô, tay trong tay, dọc dãy hành lang lạnh giá. Chúng tôi lên hai lượt cầu thang, tới căn phòng đánh số 306 của cô. Cô mở ví lục tìm chìa khóa. Rồi cô ngượng nghịu mỉm cười, nói cảm ơn, bảo rằng hôm nay cô rất vui.
Như mọi khi, tôi bảo cô đừng khách sáo.
Cô mở khóa rồi nhét chìa khóa vào ví. Tiếng kéo khóa ví khô khốc vang tận xuổng cả hành lang. Rồi cô nhìn thẳng vào tôi. Tựa như đang nhìn vào một đề bài môn hình học. Cô đang do dự, không thể quyết định xem mình nên nói lời tạm biệt thế nào. Tôi có thể nhận ra điều đó.
Chống tay lên tường, tôi chờ cô đưa ra quyết định gì đó, nhưng dường như không có tiến triển.
“Chúc ngủ ngon,” tôi nói, “Cho tôi gửi lời hỏi thăm em gái cô.”
Cô mím chặt môi trong, khoảng bốn hay năm giây. “Chuyện sống cùng em gái,” cô gần như thầm thì, “Chuyện đó không phải là sự thực. Thực ra, tôi sống một mình.”
“Tôi biết,” tôi đáp.
Mặt cô dần ửng hồng. “Làm sao anh biết?”
“Không biết nói sao, tôi chỉ biết thôi,” tôi đáp.
“Anh thật là quá quắt, anh biết không?”
Khi tôi quay lại, người lái xe đang đọc một tờ báo thể thao. Anh ta có vẻ ngạc nhiên khi thấy tôi lên xe và bảo đưa tôi về khách sạn Cá Heo.
“Anh thật sự muốn quay lại chứ?” anh ta cười gượng gạo hỏi. “Theo lẽ thường, tôi đoán là anh sẽ trả tiền và bảo tôi đi. Thông thường đều là vậy.”
“Tôi cá là vậy.”
“Khi làm công việc này lâu như tôi, trực giác của anh sẽ gần như không bao giờ sai cả.”
“Khi làm một công việc lâu như vậy, chắc chắn anh sẽ đoán trượt vài lần. Quy luật trung bình mà.”
“Có lẽ vậy,” người lái xe trả lời, có vẻ hơi bối rối. “Nhưng dù gì thì vẫn rất lạ, anh bạn ạ.”
“Có thể,” tôi đáp, “cũng có thể như vậy.”
Trở về phòng, Tôi rửa mặt qua loa trước khi lên giường. Đó là lúc tôi bắt đầu thấy hối tiếc về những việc mình đã làm - hay đã không làm - nhưng rồi tôi nhanh chóng chìm vào giấc ngủ. Sự nuối tiếc của tôi thường không kéo dài quá lâu.
Việc đầu tiên tôi làm vào buổi sáng là gọi cho quầy lễ tân và gia hạn thời gian ở lại khách sạn thêm ba ngày nữa. Đang là mùa vắng khách nên họ rất vui vẻ đồng ý.
Tiếp đó tôi mua báo, tới một cửa hàng Dunkin’ Donuts gần đó ăn hai chiếc bánh xốp nướng cùng hai tách cà phê lớn. Bữa sáng trong khách sạn chỉ ăn một hôm là chán ngấy. Cửa tiệm Dunkin’ Donuts là cứu tinh. Giá rẻ và còn có thể xin thêm cà phê.
Rồi tôi lên một chiếc taxi và bảo người lái xe đưa tới thư viện lớn nhất ở Sapporo. Tôi kiếm mấy số cũ của tờ tạp chí mà bài viết về khách sạn Cá Heo có vẻ từng xuất hiện và tìm thấy nó trong số ra ngày 20 tháng Mười. Tôi sao lại rồi mang nó tới quán cà phê gần đó để đọc.
Đó là một bài báo khá khó hiểu. Tôi phải đọc vài lần mới nắm được chuyện gì đã xảy ra. Tay phóng viên đã cố hết sức để viết một câu chuyện dễ hiểu, nhưng dường như mọi nỗ lực của anh ta vẫn không hiệu quả trước một mớ thông tin hỗn tạp. Rất lằng nhằng thông tin. Phải ngồi xuống nghiền ngẫm thì mới nắm được mạch câu chuyện. Tiêu đề bài báo là: “Thị trường bất động sản ở Sapporo: Những bàn tay đen phía sau công tác quy hoạch thành phố.” Và in dọc ngay bên cạnh là một tấm ảnh nhìn từ trên cao của khách sạn Cá Heo lúc gần hoàn thành.
Đầu đuôi câu chuyện là thế này: Có vài công ty nào đó đã mua một khu đất lớn trong một khu vực của thành phố Sapporo. Trong hai năm, tên các chủ đất mới thay đổi liên tục, rất mập mờ và thật khác thường. Giá đất tăng cao mà chẳng có lý do gì rõ rệt. Chỉ với chừng đó thông tin, tay phóng viên viết bài này đã bắt đầu tiến hành điều tra. Kết quả là: Đất đã được bán cho rất nhiều công ty, phần lớn chỉ tồn tại trên giấy tờ. Những công ty đó đều đăng ký đầy đủ, họ đóng thuế, nhưng không hề có văn phòng và nhân viên. Những công ty ma này lại có quan hệ chặt chẽ với những công ty ma khác. Cho dù họ là ai thì trò tung hứng với quyền sở hữu đất này cũng thật cao tay. Một lô đất mua giá hai mươi triệu yên được bán, lại với giá sáu mười triệu yên, rồi tiếp sau đó được bán lại với giá hai trăm triệu yên. Nếu kiên trì lần theo dấu vết kẻ đứng sau mỗi công ty ma thông qua mê cung có vô số liên kết này, ta sẽ phát hiện ra rằng tất cả đều kết thúc tại một điểm: đó là công ty B Industries, một tay chơi có tiếng trong làng bất động sản. B Industries hiện là một công ty thật với trụ sở chính hoành tráng ngụ tại khu Akasaka ở Tokyo. Một điều khác mà không phải ai cũng biết, B Industries dường như có liên kết với A Enterprises, một tập đoàn khổng lồ bao gồm các công ty đường sắt, một chuỗi khách sạn, một công ty sản xuất phim, dịch vụ thực phẩm, cửa hàng bách hóa, các tờ tạp chí... tất cả mọi thứ, bao gồm cả tín dụng ngân hàng và công ty bảo hiểm. A Enterprises có quan hệ trực tiếp với giới chính trị, chính điều này đã thôi thúc tay phóng viên kia đi sâu điều tra vụ này. Nhờ đó anh ta đã phát hiện ra nhiều điều thú vị hơn nữa. Khu đất ở Sapporo mà B Indtrustries đã nhanh tay mua gọn nằm trong vùng quy hoạch tái phát triển của thành phố. Những kế hoạch xây dựng tuyến tàu điện ngầm cũng như di chuyển các cơ quan chính phủ rời khu vực đó đã được xúc tiến. Phần lớn chi phí cho các dự án cơ sở hạ tầng đều là của nhà nước. Dường như chính phủ và chính quyền cấp tỉnh, thành phố đã cùng nhau lập kế hoạch, thống nhất một chương trình quy hoạch toàn diện, cả phạm vi cũng như dự thảo ngân sách. Nhưng khi lật tấm “màn che” này lên, rõ ràng là mỗi mét vuông đất quy hoạch đã được mua một cách có hệ thống từ vài năm trước. Đã có ai đó tiết lộ thông tin cho A Enterprises, hơn nữa, những thông tin bị này bị rò rỉ từ trước khi kế hoạch tái phát triển được hoàn thành. Điều này cũng có nghĩa là, nói theo kiểu chính trị, những kế hoạch cuối cùng đều là “việc đã rồi” ngay từ ban đầu.
Tới đây khách sạn Cá Heo được nhắc đến. Nó là mũi nhọn của vụ lũng đoạn thị trường bất động sản này. Trước hết, khách sạn Cá Heo chiếm khu đất tốt nhất. Do vậy, A Enterprises có thể thiết lập văn phòng trong công trình kiến trúc bằng kim loại và đá cẩm thạch mới này, coi nó như đại bản doanh địa phương. Nó vừa là đèn hiệu hướng dẫn vừa là tháp canh, một biểu tượng rõ ràng của sự thay đổi cũng như một trung tâm chỉ huy có thể định hướng lại dòng người trong khu vực. Mọi thứ đang được tiến hành theo những kế hoạch cực kỳ phức tạp.
Đó chính là chủ nghĩa tư bản bậc cao: người chơi bỏ ra khoản vốn đầu tư lớn nhất nhận được những thông tin giá trị nhất nhằm gặt hái được lợi nhuận cao nhất như mong muốn với hiệu suất đầu tư lớn nhất - và không ai buồn để mắt đến điều đó. Nó chỉ là một phần của việc đầu tư ngày nay. Ta đòi hỏi lợi nhuận nhiều nhất cho số vốn đã bỏ ra. Một người mua xe cũ sẽ đá vào lốp xe, kiểm tra dưới nắp xe, còn một tập đoàn bỏ ra một trăm tỉ yên vốn đầu tư sẽ rà soát từng điểm nhỏ nhất tại nơi mà họ rót vốn vào, đôi lúc còn làm một số chuyện mờ ám nữa. Công bằng không có chỗ đứng ở đây. Với nhiều tiền như thế trong tay, ai lại ngồi suy ngẫm về những thứ trừu tượng như thế chứ?
Đôi lúc, thậm chí họ làm rất mạnh tay.
Giả dụ có ai đó không muốn bán đất. Một cửa hàng giày lâu năm chẳng hạn. Đó là lúc những gã thô bạo không biết từ đâu đột nhiên xuất hiện. Các công ty lớn có những mối liên kết riêng, và dám cá rằng trong bè cánh của họ có mọi đối tượng, từ các chính khách, tiểu thuyết gia, các ngôi sao nhạc rock đến những tên yazuka chính hiệu. Vì vậy, họ chỉ cần ới đám trai tráng với thanh kiếm samurai của chúng là xong. Cảnh sát chẳng bao giờ thiết tha với các vụ như thế này, đặc biệt là khi những sắp xếp đều đã được quyết định từ bên trên. Thậm chí đó còn không phải là tham nhũng. Đó là cách cả hệ thống vận hành. Đó là đầu tư tư bản. Phải công nhận rằng, những chuyện như vậy không còn mới trong xã hội hiện đại này nữa rồi. Nhưng mọi thứ trong quá khứ chẳng là gì so với sự chính xác, quyền lực tuyệt đối và sự vững chắc của mạng lưới tư bản ngày nay. Chính những cỗ máy tính khổng lồ, với khả năng phi thường có thể quy nạp mọi sự vật và hiện tượng trên trái đất này vào mạng lưới tính toán của chúng, đã khiến tất cả những điều đó thành có thể. Chủ nghĩa tư bản bậc cao đã vượt qua chính nó. Không hề phóng đại, các giao dịch tài chính trên thực tế gần như đã trở thành hoạt động tôn giáo. Một chủ nghĩa thần bí mới. Người ta sùng bái tư bản, ngưỡng mộ tinh hoa của nó, quỳ gối trước những chiếc Porsche và giá đất ở Tokyo. Tôn thờ mọi thứ mà chiếc Porsche sáng loáng của họ biểu tượng. Đó là điều thần bí duy nhất còn tồn tại trên thế giới này.
Chủ nghĩa tư bản hiện đại. Dù thích hay không, nó cũng là xã hội mà chúng ta đang sống. Thậm chí chuẩn mực đúng sai cũng bị phân hóa và làm cho trở nên phức tạp. Trong cái tốt, có cái tốt hợp thời và cái tốt không hợp thời, cũng tương tự như vậy cho cái xấu. Trong cái tốt hợp thời, lại có loại trang trọng, có loại bình thường; có loại tân thời, có loai sành điệu, có loại đúng mốt, có loại trưởng giả học làm sang. Nhào trộn chúng nhiều lần thành một mớ bùng nhùng. Giống như mặc một chiếc áo len hiệu Missoni với quần mác Trussardi và giày hãng Pollini vậy, giờ đây ta có thể thưởng thức sự lai tạp giữa nhiều kiểu đạo đức khác nhau. Đó là cách thức của thế giới - triết học ngày càng trở nên giống với quản trị kinh doanh.
Mặc dù lúc đó tôi không nghĩ vậy nhưng mọi thứ đều đơn giản hơn nhiều vào năm 1969. Điều duy nhất phải làm để chứng tỏ cái tôi là ném đá vào đám cảnh sát chống bạo loạn. Nhưng trong thời buổi phức tạp hiện nay, ai sẽ là người ném đá? Ai sẽ dũng cảm xông lên giữa làn hơi cay? Thôi, thực tại là thế. Mọi thứ đều được che đậy, được liên kết trong mạng lưới tư bản khổng lồ ấy, và đằng sau mạng lưới đó còn có mạng lưới khác. Không ai thoát được. Ta ném đi một hòn đá và nó sẽ bật ngược trở lại ta ngay tức khắc.
Tay phóng viên đã tốn rất nhiều công sức lần theo dấu vết để lại trên giấy tờ. Dẫu vậy, bất chấp anh ta có lớn tiếng thế nào - hay có lẽ chính vì anh ta quá lớn tiếng - bài báo thiếu sức thuyết phục đến quái lạ. Một khẩu hiệu ảnh hưởng rộng khắp ư, không phải. Dường như anh chàng này không nhận thức được: Chẳng có gì trong chuyện này là đáng ngờ hết. Đó là việc hiển nhiên trong chuyện làm ăn. Rất thông thường, như thứ tự ngày tháng vậy, ai cũng biết. Những thứ vốn chẳng ai quan tâm. Nếu các nhà đại tư bản lấy được thông tin một cách bất hợp pháp và mua vét đất đai, hay là thao túng vài quyết định chính trị, rồi giải quyết vụ việc bằng cách thuê bọn yakuza đe dọa một hiệu giày nhỏ ở đây, có thể đập cho ông chủ khách sạn hạng bét nào một trận, thì sao nào? Đời là vậy. Những hạt cát thời gian vẫn đang trượt dưới chân ta. Nơi chúng ta đang đứng không còn là nơi chúng ta đã đứng nữa.
Tay phóng viên đã làm hết sức mình. Bài báo này đã được nghiên cứu rất nghiêm túc trước khi viết ra, chất chứa nỗi căm phẫn muốn bảo vệ lẽ phải và quan điểm lạc hậu vô vọng.
Tôi gấp tờ giấy lại, cất vào túi và uống một ly cà phê khác.
Tôi nghĩ về tay chủ khách sạn Cá Heo cũ. Ngài Bất Hạnh, từ khi sinh ra đã bị cái bóng của thất bại che phủ. Không có lý nào anh ta có thể làm nên chuyện trong cái thời đại này.
“Lạc hậu!” tôi nói lớn tiếng.
Cô bồi bàn nhìn tôi với vẻ khó chịu.
Tôi gọi một chiếc taxi về khách sạn.
8
Từ phòng mình, tôi gọi điện cho anh bạn đối tác cũ ở Tokyo. Một người không quen cầm máy và hỏi tên tôi, sau đó lại một người khác bắt máy và hỏi tên tôi tiếp, cuối cùng mới đến anh bạn cũ của tôi nhấc máy. Cậu ta có vẻ bận bịu. Đã một năm rồi chúng tôi không nói chuyện. Không phải tôi cố ý tránh cậu ta; đơn giản là tôi và cậu ta chẳng có gì để nói, Tôi đã luôn quý cậu ta, bây giờ vẫn vậy. Nhưng thực tế, người bạn cũ này đối với tôi (và cả tôi đối với cậu ta) là “quá khứ đã xa.” Nhắc lại một lần nữa, không phải chúng tôi đẩy nhau vào vị trí thế này. Chẳng qua chúng tôi chỉ đi theo con đường riêng của mình, và hai con đường này không giao nhau nữa. Không hơn, không kém.
Dạo này thế nào rồi? Tôi hỏi.
Cũng tốt, cậu ta trả lời.
Tôi bảo cậu ta rằng tôi đang ở Sapporo. Cậu ta liền hỏi thời tiết có lạnh không.
Có, rất lạnh, tôi trả lời.
Công việc thế nào? Đó là câu hỏi tiếp theo của tôi.
Bận, cậu ta đáp gọn lỏn.
Không uống nhiều nữa chứ, tôi hy vọng.
Dạo này thì không, gần đây cậu ta cũng không uống nhiều nữa.
Ở đó tuyết có rơi không? Đến lượt cậu ta hỏi tôi.
Giờ thì không, tôi tiếp tục câu chuyện.
Chúng tôi cứ kéo dài mãi trò xã giao tung hứng như vậy.
Cuối cùng tối cũng đi vào chủ đề chính: “Nghe này, tôi có chuyện muốn nhờ cậu.”
Ngày trước tôi cũng đã giúp cậu ta một lần, Cả tôi và cậu ta đều còn nhớ. Vả lại, tôi cũng chẳng phải là loại người thích nhờ vả người khác.
“Rất sẵn lòng,” cậu ta nói không chút kiểu cách.
“Cậu có nhớ lần chúng ta làm dịch vụ bản tin tận nhà của tập đoàn khách sạn đó không?” tôi hỏi. “Hình như năm năm trước thì phải?”
“Có, tôi nhớ.”
“Cậu có còn qua lại với họ khỏng?”
Cậu ta suy nghĩ một lúc. “Khó thể nói là rất thân thiết, nhưng cũng không đứt đoạn. Không tới mức không thể hâm nóng quan hệ nếu cần thiết.”
“Có một chằng cha biết rất nhiều về những việc đang xảy ra trong ngành này. Tôi quên mất tên hắn rồi. Người gầy nhẳng, lúc nào cũng đội cái mũ trông buồn cười. Cậu nghĩ có có thể liên lạc với hắn được không?”
“Tỏi nghĩ chắc là được. Cậu muốn biết chuyện gì?”
Tôi tóm tắt lại cho cậu ta bài báo về vụ scandal khách sạn Cá Heo. Cậu ta ghi lại ngày bài báo xuất hiện. Sau đó tôi nói về cái khách sạn Cá Heo cũ và xập xệ đã có ở đó trước cái khách sạn Cá Heo quái quỷ kia, tôi nói rằng muốn biết thêm những điều sau: Một là, tại sao khách sạn mới lại giữ nguyên tên cũ? Hai là, người chủ cũ hiện ra sao? Và cuối cùng là gần đây vụ scandal đó có diễn biến gì mới nữa không?
Cậu ta ghi chép tất cả thông tin và đọc lại cho tôi kiểm tra.
“Đủ chưa?”
“Đủ rồi đấy,” tôi đáp “Chắc cậu đang vội hả?” cậu ta hỏi.
“Xin lỗi, nhưng...”
“Tôi sẽ xem hôm nay có thể làm gì cho cậu. Số của cậu ở đó là gì?”
Tôi cho cậu ta số điện thoại của tôi.
“Nói chuyện sau nhé,” cậu ta nói rồi gác máy.
Tôi ăn bữa trưa đơn giản ở căng tin trong khách sạn. Sau đó tôi xuống tiền sảnh và trông thấy cô tiếp tân đeo kính đang ở sau quầy. Tôi ngồi xuống một chỗ trong góc và quan sát cô. Cô đang bận và có vẻ không chú ý đến tôi. Hoặc có thể cô đã để ý thấy, nhưng lại giả vờ lạnh lùng. Nhưng tôi đoán đó cũng chẳng phải là vấn đề. Tôi thích ngắm cô từ vị trí này. Đồng thời tôi tự nhủ rằng hôm qua mình đã có thể ngủ với cô nếu muốn.
Có những lúc tôi cần phải tự cổ vũ bản thân mình như vậy.
Sau khi đã ngắm cô gái đủ lâu, tôi vào thang máy phòng mình và đọc sách. Bầu trời bên ngoài nặng mây, khiến tôi cảm thấy như đang sống trong một cái lồng thiếu ánh sáng. Vì không rõ khi nào thì anh bạn cũ sẽ gọi lại, nên tôi cũng không muốn ra khỏi phòng, điều này khiến tôi chẳng còn việc gì để làm ngoài đọc sách. Tôi nhanh chóng đọc xong Jack London và chuyển sang cuốn Nội chiến Tây Ban Nha.
Ngày hôm nay giống như một đoàn phim quay chậm cảnh chiều tối. Chẳng có sự kiện gì, đây là đã nói giảm đi rồi đấy. Màu ghi sáng của bầu trời nhẹ nhàng thấm vào sắc đên, và cuối cùng hòa trộn thành màn đêm. Chỉ là một mức đỏ khác của sự u ám mà thôi. Như thể trên thế giới chỉ có hai màu duy nhất, đen và xám, hoán đổi nhau tuân theo quỹ đạo thời gian nhất định.
Tôi gọi phục vụ phòng yêu cầu mang bánh sandwich lên, tôi ăn một miếng bánh, rồi lại làm một ngụm bia. Khi không có việc gì làm, người ta thường làm mọi thứ chậm rãi và tỉ mẩn. Bảy giờ ba mươi, anh bạn cũ của tôi gọi tới.
“Tôi đã tìm thấy thằng cha đó,” cậu ta nói.
“Có tốn công lắm không?”
“Ừm, tương đối,” cậu ta nói sau một giây im lặng, tạo ra cảm giác như thể việc đó đúng là rất khó khăn. “Để tôi tóm tắt lại cho cậu. Chắc cậu cũng thấy là vụ này đã được bưng bít khá kín rồi. Mà không chỉ kín thôi đâu, nó còn được đóng chốt và khóa vào trong hầm ấy. Không ai đụng tới cả. Vụ việc kết thúc. Không cần cả bùn đất để đào bới lên ấy chứ. Có vẻ như đã có vài chuyện bất bình thường trong chính phủ hay tòa thị chính. Không có gì quan trọng, chỉ là điều chỉnh một chút, họ đã nói vậy đấy. Chẳng ai biết gì thêm nữa. Viện kiểm sát cũng đã chõ mũi vào, nhưng cuối cùng cũng chẳng đi đến đâu. Nhiều đầu mối chạy qua đây lắm. Rất phức tạp. Khó khăn lắm mới moi được tin đấy.”
“Đây chỉ là vấn đề cá nhân của tôi thôi mà. Sẽ không gây rắc rối cho ai cả đâu.”
“Tôi cũng nói với hắn ta đúng như vậy đấy,” vẫn giữ ống nghe, tôi với sang tủ lạnh lấy chai bia khác và rót vào cốc.
“Có vẻ như tôi lắm chuyện giống mẹ cậu, nhưng nói thế này chắc cậu hiểu: Nếu định tọc mạch, cậu sẽ dính đòn đấy,” bạn cũ của tôi nói. “Có vẻ như vụ này khá lớn, thực sự lớn. Tôi không biết cậu được gì khi dấn thân vào, nhưng nếu là cậu, tôi sẽ không lún sâu vào việc này đâu. Hãy nghĩ đến tuổi tác và hoàn cảnh của mình, cậu nên sống an phận hơn đi. Tôi không bảo cậu học theo tôi, hiểu không?”
Cậu ta ho khan, tôi uống một ngụm bia nữa.
“Còn về người chủ khách sạn Cá Heo cũ, có vẻ như anh ta đã không nhượng bộ cho đến phút cuối, vì thế mà anh ta phải chuốc lắm tai họa. Đáng lẽ ra nên đi khỏi đó ngay, nhưng anh ta lại không chịu chuyển đi. Chắc là không nhìn được bức tranh toàn cảnh lúc đó.”
“Thằng cha ấy đúng là loại người đó đấy,” tôi nói. “Rất cổ hủ.”
“Chuyện kinh doanh của anh ta kết thúc vô cùng tồi tệ. Một đám yakuza đến khách sạn và ở lì đó. Không làm chuyện gì quá tệ đến mức phạm pháp. Chúng tụ tập trong tiền sảnh và hằm hè nhìn bất cứ ai bước vào trong. Cậu tưởng tượng ra được chứ? Tuy nhiên, tay chủ ấy vẫn kiên quyết không nhượng bộ.”
“Tôi hiểu,” tôi nói. “Người chủ khách sạn Cá Heo cũ chắc đã quá quen với đủ loại khó khăn khổ sở rồi. Vài chuyện bất hạnh lặt vặt ấy chẳng thể làm anh ta nao núng.”
“Cuối cùng thì chủ cũ của khách sạn Cá Heo đã đưa ra một đề nghị lạ đời. Thằng cha của cậu đã nói với bọn người đó là hắn sẽ ra đi. Với một điều kiện. Cậu biết là gì không?”
“Chịu,” tôi đáp.
“Đoán thử xem nào. Suy nghĩ đi, anh bạn, chỉ một chút thôi. Đó là câu trả lời cho một trong các câu hỏi của cậu đấy.”
“Với điều kiện là phải giữ nguyên tên khách sạn Cá Heo. Đúng vậy không?”
“Chính xác,” cậu ta nói. “Đó là điều kiện và những người mua đã đồng ý.”
“Nhưng tại sao?”
“Đó cũng không phải một cái tên quá dở. Tên ‘Khách sạn Cá Heo’ nghe cũng ổn mà.”
“ Ừm, có lẽ vậy,” tôi nói.
“Hơn nữa, khách sạn này sẽ là lá cờ tiên phong cho chuỗi khách sạn mới mà A Enterprises đang có kế hoạch xây dựng. Khách sạn siêu cao cấp, không phải hạng tầm tầm như trước đây. Mà lúc đó họ cũng chưa có tên cho nó.”
“Hiểu rồi! Chuỗi khách sạn Cá Heo.”
“Đúng vậy. Một chuỗi khách sạn để cạnh tranh với Hilton hay Hyatts trên thế giới.”
“Chuỗi khách sạn Cá Heo,” tôi nhắc lại một lần nữa. Một di sản được chuyển giao, một giấc mơ được trải rộng. “Vậy chuyện gì đã xảy ra với người chủ khách sạn cũ?”
“Ai biết được?”
Tôi uống một ngụm bia nữa và lấy đầu bút gãi tai.
“Lúc ra đi, bọn họ đã cho anh ta một món tiền kha khá, nên anh ta có thể làm bất cứ việc gì. Nhưng chẳng có cách nào tìm ra anh ta đâu. Anh ta chỉ là một nhân vật nhỏ, một kẻ qua đường mà thôi.”
“Có lẽ vậy.”
“Đại khái là thế,” anh bạn cũ của tôi nói. “Đó là tất cả những gì tôi tìm hiểu được. Hết rồi. Vậy có đủ cho cậu không?”
“Cám ơn. Cậu đã giúp tôi rất nhiều,” tôi nói.
Bạn tôi hắng giọng.
“Cậu phải xùy tiền ra à?” tôi hỏi.
“Không,” cậu ta nói. “Tôi sẽ mời hắn đi ăn tối, rồi đưa tới hộp đêm ở Ginza, trả tiền xe cho hắn về nhà. Chẳng nhiều nhặn gì đâu, để ý làm gì. Đằng nào tôi cũng có thể tính nó thành kinh phí mà. Mọi thứ đều có thể khấu trừ. Mẹ khỉ, kế toán của tôi lúc nào cũng bảo phải chi nhiều hơn nữa. Cậu đừng bận tâm làm gì. Lúc nào muốn đến hộp đêm ở Ginza thì cho tôi biết. Tôi bao. Chưa đến những nơi đó bao giờ phải không?”
“Hộp đêm ở Ginza thì có gì hay ho chứ?”
“Rượu và gái,” bạn tôi nói. “Những lời khen của thằng cha kế toán nữa.”
“Sao cậu không đi với hắn?”
“Tôi cũng mới đi với hắn đấy chứ,” cậu ta nói, có vẻ vô cùng ngao ngán.
Chúng tôi chào tạm biệt và gác máy.
Tôi bắt đầu nghĩ về anh bạn đối tác cũ này. Cậu ta bằng tuổi tôi, nhưng bụng đã phệ. Bàn làm việc của cậu ra chất đủ các thứ thuốc theo đơn bác sĩ kê. Thực sự quan tâm đến việc ai trúng cử. Rất lo lắng chuyện học hành của con cái. Lúc nào cậu ta cũng cãi nhau với vợ, nhưng về cơ bản thì đúng là một người đàn ông của gia đình. Chắc chắn là cậu ta cũng có điểm yếu, cậu ta nổi tiếng là uống rượu nhiều, nhưng thuộc típ người chăm chỉ, thẳng thắn. Theo đúng nghĩa đen của những từ ấy.
Chúng tôi hợp tác với nhau từ sau khi tốt nghiệp đại học và làm việc khá ăn ý. Đầu tiên chỉ là dịch tài liệu vặt vãnh, sau đó công việc dần dần mở rộng. Chính xác thì hai chúng tôi không phải bạn thân, nhưng quan hệ cộng tác thì khá ổn. Ngày nào chúng tôi cũng gặp nhau nhưng chẳng cãi vã bao giờ. Cậu ta trầm tính và lịch sự, còn bản thân tôi cũng chẳng phải là hạng ưa tranh cãi. Dẫu vẫn có những điểm khác biệt, nhưng chúng tôi đã cố gắng làm việc dựa trên tôn trọng lẫn nhau. Nhưng rồi có vài chuyện bất ngờ xảy ra, chúng tôi không hợp tác với nhau nữa, có lẽ cũng là thời điểm thích hợp nhất. Cậu ta bắt đầu lại từ đầu, tiếp tục làm việc cho cả hai người, thậm chí có khi còn tốt hơn khi chúng tôi làm chung nữa, thành thật mà nói là vậy. Nếu dựa trên danh sách khách hàng của cậu ta thì đúng là như vậy. Công ty ngày càng phát triển, cậu ta tuyển thêm cả một đội ngũ nhân viên mới. Thậm chí về mặt tâm lý, cậu ta cũng có vẻ vững vàng hơn.
Hình như tôi mới là người có vấn đề. Và có lẽ tôi đã có ảnh hưởng không-lành-mạnh lắm đến cậu ta. Điều này giải thích tại sao cậu ta có thể tìm ra con đường của mình sau khi tôi ra đi. Khen ngợi lấy lòng nhân viên để họ làm việc với kết quả tốt nhất, kể những chuyện cười ngu ngốc cho các cô tài vụ, dẫn khách hàng đến hộp đêm ở Ginza theo nghĩa vụ bất chấp chuyện cậu ta thấy việc đó thật buồn chán. Có lẽ cậu ta cảm thấy căng thẳng nếu phải làm những việc đó khi có mặt tôi. Cậu ta luôn để ý xem tôi nhìn cậu ta như thế nào, lo lắng xem tôi sẽ nghĩ gì. Cậu ta là kiểu người ấy. Mặc dù, thành thật mà nói, tôi chẳng quan tâm lắm đến chuyện cậu ta làm gì trước mắt mình cả.
Tốt thôi, giờ cậu ta đã là chính bản thân mình. Ở mọi góc độ.
Có nghĩa là, việc tôi ra đi đã khiến cậu ta không ngại ngần hành động đúng với tuổi tác, và cậu ta trở lại là chính mình.
Còn với tôi, điều này đã dẫn tôi tới đâu nhỉ?
Chín giờ, chuông điện thoại reng. Tôi không chờ cuộc gọi nào cả - chẳng ai ngoài anh bạn đối tác cũ biết tôi đang ở đây - cho nên ban đầu tôi không chú ý mấy đến tiếng chuông điện thoại lắm. Sau bốn tiếng chuông, tôi nhấc máy.
“Anh đã quan sát tôi trong tiền sảnh đúng không?” Đó là cô bạn tiếp tân của tôi. Cô không có vẻ gì là tức giận, nhưng cũng chẳng vui vẻ. Giọng nói của cô không thể hiện điều gì.
“Đúng vậy,” tôi thú nhận.
Im lặng.
“Tôi không thích bị người khác quan sát khi đang làm việc. Điều đó làm tôi lo lắng và bắt đầu mắc lỗi. Tôi cảm thấy như anh cứ nhìn tôi suốt.”
“Xin lỗi, tôi sẽ không nhìn chằm chằm vào cô nữa,” tôi nói. “Tôi chỉ nhìn cô để có thêm tự tin thôi. Tôi không nghĩ cô lại căng thẳng như vậy. Từ giờ tôi sẽ cẩn thận hơn. Cô gọi từ đâu đấy?”
“Nhà tôi.” cô gái trả lời. “Tôi chuẩn bị tắm rồi đi ngủ. Anh đã gia hạn ngày ở lại đây đúng không?”
“À phải. Công việc bị trì hoãn một chút.”
Thêm một khoảng lặng ngắn.
“Anh có nghĩ tôi quá căng thẳng không?” cô hỏi.
“Tôi không biết. Mỗi người mỗi khác mà. Nhưng dù sao, tôi hứa là sẽ không nhìn cô chằm chằm nữa. Tôi không muốn ảnh hưởng đến công việc của cô.”
Cô nghĩ ngợi vài giây, sau đó chúng tôi chào tạm biệt.
Tôi cúp máy, đi tắm, và nằm dài trên ghế sô pha đọc sách cho đến mười một rưỡi. Sau đó tôi thay quần áo bước ra hành lang. Tôi bước từ đầu này đến đầu kia. Nó giống như một mê cung vậy. Ở chỗ xa nhất là thang máy dành cho nhân viên, hơi khuất tầm nhìn, ngay bên cạnh cầu thang khẩn cấp. Nếu đi theo bảng chỉ dẫn, qua mấy phòng khách sẽ thấy có một cái thang máy ghi hàng chữ “Chỉ dành cho hàng hóa.” Tôi đứng ngay trước đó, để ý thấy thang máy đang dừng ở tầng trệt. Có vẻ như không ai sử dụng nó cả. Loa trên trần đang phát giai điệu “Love is blue”. Paul Mauriat.
Tôi nhấn nút. Thang máy khởi động rồi bắt đầu leo lên. Màn hình hiện lên số tầng - 1, 2, 3, 4, 5, 6 - rất chậm nhưng rõ ràng là vẫn đang lên, theo giai điệu của tiếng nhạc.
Nếu có ai đó ở trong thang máy, tôi luôn có thể giả vờ không biết. Khách thuê phòng tại khách sạn vẫn thường hay nhầm như thế. 11, 12, 13, 14 - thang máy lên đều. Tôi lùi lại, cho hai tay vào túi quần, đợi cửa mở ra.
15 - con số ngừng nhảy. Có một thoáng sững lại, không một tiếng động, rồi cửa mở ra. Trong thang máy trống rỗng.
Im lặng khủng khiếp, tôi thầm nhủ. Hoàn toàn khác hẳn với tiếng cọt kẹt ở khách sạn cũ. Tôi vào trong và nhấn nút số 16. Cánh cửa đóng lại, không một tiếng động, tôi chỉ cảm thấy một chuyển động rất nhẹ, rồi cửa thang máy mở ra. Tầng mười sáu. Sáng sủa, rất sáng là đằng khác, giai điệu “Love is blue” chảy ra từ trần nhà. Không tối tăm, cũng chẳng có mùi ẩm mốc. Tôi đi dọc theo hành lang từ đầu này đến đầu kia để xem xét thật kỹ lưỡng. Có thể thấy là cách bài trí ở đây cũng chẳng khác gì tầng mười lăm. Cũng một kiểu hành lang rắc rối, cũng các dãy phòng như trải dài ra vô tận, cũng có máy bán hàng tự động trong hốc tường giữa hành lang, cũng có một dải thang máy dành cho khách.
Thảm trải sàn màu đỏ đậm, có lớp lông dày mềm mại. Không thể nghe thấy tiếng bước chân của chính mình. Trên thực tế, ở đây im lặng gần như tuyệt đối. Chỉ có tiếng nhạc bài “A Summer Place” văng vẳng, có lẽ Percy Faith. Đến cuối hành lang, tôi quay lại và đi bộ về chỗ thang máy dành cho khách rồi xuống tầng mười lăm. Sau đó tôi lặp lại hành trình đó một lần nữa. Đi thang máy của nhân viên lên tầng mười sáu, vẫn như vậy, hoàn toàn bình thường và sáng sủa. Và vẫn bài hát “A Summer Place.”
Tôi bỏ cuộc và quay lại tầng mười lăm, uống hai ngụm brandy và đi ngủ.
Lưu địa chỉ wap để tiện truy cập lần sau. Từ khóa tìm kiếm: chatthugian